Thứ Năm, 10 Tháng Mười 20193:00 SA
Đoàn tàu hoả dài hơn 2km chạy trên sa mạc Sahara
Quấn chiếc khăn choàng Ả-rập (khăn touareg) quanh mặt để mắt khỏi bị cát bụi tấn công, tôi trèo thang chui vào toa xe chở hàng và đưa mắt đánh giá hiện trường.
Một hàng dài vô tận những toa tàu kéo dài đến tận chân trời, rung chuyển và lắc lư.
Ở hai bên là bình nguyên cát trải dài đến vô biên và những đụn cát thấp trôi dần qua trong ánh sáng lấp lánh của sa mạc Sahara.
Có những người ngồi trên các toa xe phía trước, quay mặt về hướng gió và la hét với nhau bằng tiếng Ả-rập ồn ào đến điếc tai.
Ta có thể tưởng tượng việc đi qua Sahara bằng tàu hỏa thì giống như một hành trình thiền định.
Theo một số cách nào đó thì quả là vậy – nhưng nó cũng là một cú đánh không khoan nhượng, không ngừng nghỉ vào cơ thể cùng các giác quan của ta.
Tiếng động ầm ầm và cùng âm thanh nghiến ken két; những cơn rung liên tục lan truyền lên khắp cơ thể; những hạt cát lao xoáy lẫn vào tóc trong làn gió nóng; mặt trời sa mạc chiếu rát nhói vào nơi mí mắt.
Khai trương vào năm 1963, đoàn tàu có tên Train du Desert của Mauritania chạy mỗi ngày một chuyến ngang sa mạc, từ cảng Nouadhibou trên bờ biển Đại Tây Dương đến các mỏ quặng sắt ở Zouerat ở phía tây bắc đất nước.
Từ bến đầu đến bến cuối là hành trình chạy dọc theo biên giới vùng lãnh thổ có tranh chấp Tây Sahara, đi mất khoảng 20 giờ với tổng chiều dài là 704km.
Dài hơn 2km, đoàn tàu dùng đến ba hoặc bốn đầu máy diesel, có một toa chở khách và từ 200 đến 210 toa chở hàng.
Khi được chất đầy để đi về phía tây tới Nouadhibou, mỗi toa tàu có thể chở tới 84 tấn quặng sắt.
Tàu cũng chở hành khách qua lại giữa các cộng đồng sống nơi sa mạc xa xôi, giảm bớt được tới 500km so với hành trình bất tiện bằng đường bộ, mà nếu đi là phải vòng rất xa về phía nam đến Nouakchott, thủ đô Mauritania.
Nhiều người Mauritani lựa chọn theo cách mà tôi và người bạn đồng hành, Mike, đã làm, đó là bỏ qua toa tàu chở khách quá đông mà đi \”hạng hai\” trên các toa chở hàng, được lên miễn phí. Đó là một hành trình ồn ào, bẩn thỉu và nguy hiểm: té ngã là chuyện thường xảy ra, và nhiệt độ trong ngày có thể lên tới hơn 40C.
Tôi và Mike đã từng có những chuyến tàu vã mồ hôi, những căn hầm ọp ẹp và những chuyến đi bộ qua những đầm lầy dày đặc muỗi ở Nga.
Nhưng đoàn lữ hành bằng thép này là một bài học mới về khổ hạnh – một hộp kim loại rỗng, phía trên không có mái che khiến ta tiếp xúc hoàn toàn với một bản giao hưởng nguyên tố bất biến những sức nóng, gió và tiếng ồn.
\”Đó là một trong những đoàn tàu dài nhất thế giới,\” cha tôi sẽ nói với chúng tôi như vậy tại bàn ăn tối.
\”Hãy tưởng tượng là mình đi hàng trăm dặm tiến vào sa mạc Sahara trong một toa tàu chở hàng, sau đó xuống tàu ở giữa sa mạc trước lúc bình minh, cầu nguyện là mình đã xuống đúng điểm cần xuống. Thế rồi ngay khi mặt trời mọc, có một chiếc xe jeep chạy qua triền đồi.\”
Khi còn nhỏ, tôi đã bị cuốn hút bởi câu chuyện về cuộc hành trình của cha mẹ tôi trên chuyến tàu chở quặng sắt, một cuộc phiêu lưu bí ẩn dường như không hề tồn tại trong thế giới mà tôi biết.
Năm 1971, họ đã đi thuyền từ Quần đảo Canary đến một cảng ở vùng mà ngày nay là Tây Sahara, sau đó đi về phía nam, xuống vùng duyên hải và vào Mauritania.
Trên đường đi, họ nghe nói là có thể bắt một chuyến tàu hàng để đi tiếp vào vùng đất nghèo khổ bên trong nước này, đến các khu định cư nơi đã từng là những chặng dừng chân trên các tuyến đường buôn bán thời Sahara cổ đại.
Họ đã xuống Choum, nằm sâu khoảng 400km trong đất liền, nơi có một con đường lầm bụi dẫn đến phố chợ Atar và thành phố thiêng liêng thời trung cổ, Chinguetti.
Ghi chép duy nhất bằng hình ảnh về hành trình của họ là một slide Kodak, một thứ thánh tích của thời đại tiền kỹ thuật số trong đó mọi khung hình đều được trân trọng: có những người ngồi trên toa xe hàng dưới ánh mặt trời chói chang giữa một biển cát vô tận.
Tôi không bao giờ quên hình ảnh đó, và thường mơ sẽ có một ngày chính mình được đi trên đoàn tàu chở quặng sắt đó.
Nhiều thập kỷ sau, tôi giờ đang ngồi trên một toa xe bằng thép, lăn bánh đi vào sa mạc Sahara.
Tôi và Mike cố gắng tìm lại hành trình của cha mẹ tôi bằng cách lên đường tới Choum, sau đó tiếp tục đến Atar và Chinguetti. Đối với tôi đây là một loại tôn kính tinh thần của cha mẹ tôi; việc thực hiện giấc mơ thời thơ ấu; việc khép lại một vòng tròn.
Tại Nouadhibou, một cuộc gặp gỡ may mắn giúp chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống trên tàu.
Aiba, nhân viên lễ tân khách sạn của chúng tôi, hóa ra là người vô cùng đáng giá.
Đôi mắt đen của anh sáng lên khi nghe chúng tôi nói về kế hoạch của mình.
\”Ah, tàu hoả! Tôi đã đi trên đó rất nhiều lần,\” anh thốt lên. \”Cha tôi làm việc trong các mỏ tại Zouerat.\”
Aiba đưa cho chúng tôi những túi nhựa và băng keo để cuốn ba lô lại cho khỏi bị bụi bẩn vốn sẽ bay quấn quanh chúng tôi những lúc sau này. Sau đó, anh chở chúng tôi đến nhà ga và chọn toa tàu sẽ đỗ ở nơi gần trạm chúng tôi xuống nhất.
Với chiều dài của tàu và quy mô nhỏ của các khu định cư nơi nó dừng lại, một hành khách có thể phải đi bộ hơn một cây số khi tới ga đến, nếu như chọn không khéo toa tàu cần lên.
Có một sự mâu thuẫn kỳ quặc khi đi qua không gian rộng lớn của sa mạc Sahara bên trong một thùng sắt không cửa sổ chỉ có diện tích 8m x 4m. Vì vậy, bất cứ khi nào bắt đầu cảm thấy quá ngột ngạt, chúng tôi sẽ tự mình leo lên bậc thang nơi góc toa, trải vạt áo ra ngồi và ngắm nhìn những đụn cát, những bụi cây trôi qua.
Vào cuối chiều, tàu bắt đầu giảm tốc độ.
Hình chữ nhật dài chói mắt của bầu trời phía trên yếu dần khi mặt trời mùa đông xuống thấp hơn, và toa tàu của tôi dần chìm vào trong bóng tối. Cuối cùng, đoàn tàu dừng lại giữa một đồng bằng cô đơn, trải dài trên một đường cong rộng hàng trăm toa xe dài.
Mọi người trèo xuống và bắt đầu tụ tập ở phía sau tàu, bắt tay nhau, chào hỏi. Những người khác quay trở lại các khu vực ngoại vi hoặc im lặng nhìn từ cửa sổ toa tàu chở khách đầy bụi bẩn. Đó là một toa xe được đóng theo kiểu châu u với dòng chữ \”Le Train du Desert\” chạy dọc thân toa.
Khung cảnh hấp dẫn một cách kỳ quặc, như thể họ đang trò chuyện trong khu vực giải lao của nhà hát giữa buổi diễn chứ không phải là đi qua sa mạc trên một chuyến tàu hàng.
Trong số họ có những người đi buôn bán chiếm các toa tàu phía trước chúng tôi; trông như người châu Phi da đen và người Ả-rập, những chàng trai trẻ cao dong dỏng mặc áo khoác da và đồ thể thao. Chúng tôi đã nhìn thấy họ ở Nouadhibou, kéo những chiếc túi quá khổ lên tàu.
Rồi có những người đàn ông lớn tuổi, có lẽ là người sắc tộc Bidan Moors thuộc tầng lớp thượng lưu ở nước này, đứng cách biệt trong chiếc áo choàng màu trắng và màu xanh lam, trên đầu quấn khăn trùm Touareg.
Thành phần pha tạp trong nhóm phản ánh thực tế dân tộc phức tạp của Mauritania, một quốc gia nằm ở ranh giới đứt gãy giữa thế giới Ả-rập và vùng hạ Sahara, và thực sự không thuộc về bên nào.
Cuộc sống ở quốc gia này, nơi mà chế độ nô lệ mới chỉ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật từ năm 1981, tiếp tục bị chi phối bởi một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, trong đó hầu như không có mấy liên hệ giữa giới tinh hoa Bidan và tầng lớp Haratin phía dưới, phần lớn gồm người Mauritani là hậu duệ của người Berber (dân bản địa Bắc Phi) và người gốc Phi.
Khi tôi hòa vào dòng hành khách, vai trò của tàu hỏa trong việc tạo liên kết trong đất liền giữa Nouadhibou với các cộng đồng sa mạc xa xôi ở miền trung Mauritania trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Abdurahman, một chàng trai trẻ với những đặc điểm nổi bật của người Moor và mcó ánh mắt sắc sảo, trịnh trọng thông báo với tôi rằng anh và các bạn đang đi đến Zouerat để tìm việc làm. Một người đàn ông lớn tuổi có tên là Mohammed thì đang trên đường đến thăm con trai ở Atar, ông vẫn đi như thế này mỗi năm vài bận.
Khi mặt trời lặn hẳn, một số người bước ra sa mạc để cầu nguyện, trong khi những người khác nằm dài trên bãi cát mềm. Cuối cùng, một tiếng còi phát ra từ đầu máy báo hiệu rằng đã đến lúc phải tiếp tục và hành khách vội vã leo lên tàu, giống như các thủy thủ trở về thuyền vậy.
Sau đó, khi bóng tối bao trùm lên khắp nơi, và bầu không khí trở nên lạnh lẽo, toa xe chở khách lẫn vào các toa chở hàng.
Chẳng mấy chốc, bầu trời phía trên lấp lánh ánh sao. Mike trải chăn ra nơi sàn toa sạch sẽ không chút bụi bặm, rồi chúng tôi ngã người xuống, cố ngủ với chiếc áo choàng Berber quấn quanh.
Sau đó, run người trong giá lạnh, chúng tôi hiểu tại sao chỗ này không có bụi – không chỉ là nơi sạch nhất mà đó còn là nơi lộng gió nhất. Chúng tôi nhanh chóng di chuyển đến góc bẩn nhất.
Nửa đêm, mệt mỏi vì những nỗ lực không có kết quả để ngủ, tôi ngồi dậy. Con tàu đỗ im lìm dưới ánh trăng. Một sự tĩnh lặng dường như đã rơi trên khắp thế giới.
Bên ngoài, những khung cửa sổ của toa xe chở khách, nằm cách chúng tôi vài toa hàng, toả ra vầng hào quang kỳ lạ vào bóng đêm nơi sa mạc tối.
Ở đằng xa, những ngọn núi đen lởm chởm mọc lên một cách phi thường từ những bãi cát phẳng bất tận. Tôi tưởng tượng tâm trạng của cha mẹ mình hồi nhiều năm về trước, khi họ lo lắng tự hỏi liệu đây có phải là nơi họ muốn dừng chân.
Rồi đột nhiên có tiếng ồn lớn, ầm ầm vang lên, với tiếng đầu máy khổng lồ gào hú.
Những toa tàu chở đống quặng sắt đen sẫm rầm rầm chạy đến từ chiều ngược lại, chập chờn hiện ẩn theo ánh sáng hắt ra từ toa chở khách từ đoàn tàu của chúng tôi.
Tôi để ý thấy trên đoàn tàu kia có ba người đang cúi xuống bên lò than; rồi có một đàn dê đứng hờ hững trên đống quặng. Vài giây sau, những toa tàu biến mất, bỏ lại những đám mây bụi từ từ lắng xuống.
Sau khi rời khỏi Nouadhibou được khoảng 12 giờ đồng hồ, chúng tôi rùng mình dừng lại trong bóng tối lạnh lẽo ở Choum.
Im lặng hoàn toàn trong vài giây, rồi sau đó có tiếng nói và ánh đuốc. Chúng tôi từ toa xe nhìn ra. Những ánh đèn đeo đầu lười nhác chiếu sáng phía dưới và có những âm thanh thúc giục phát ra từ các toa tàu lân cận.
Biết rằng mình chỉ có vài phút, chúng tôi vội vã kéo túi xách hành lý của mình xuống bậc thang, đi đến nơi có một chiếc xe Peugeot cổ lỗ sỹ đang chờ.
Một khuôn mặt nhăn nheo nhoài ra khỏi cửa sổ: \”Đi Atar? Atar?\”
Chúng tôi rất biết ơn, leo lên xe. Ở bên cạnh, những toa tàu bắt đầu lăn bánh, vung bụi mịt mù đi qua chúng tôi rồi tan biến vào màn đêm.
Người tài xế, có vẻ như đã tưởng nhầm chúng tôi là người dân địa phương, bắt đầu trò chuyện bằng tiếng Ả-rập, nhưng chuyển động nhẹ nhàng của chiếc xe đã sớm khiến tôi ngủ thiếp đi.
Trong một nhà trọ ở Chinguetti vào tối hôm sau, giữa những tiếng rì rầm phía trên, đầu tôi vẫn vang lên với tiếng gầm và tiếng rít của đoàn tàu.
Tôi chập chờn nhớ lại lúc mình vụng về trình giấy tờ tại các trạm kiểm soát của cảnh sát trong bóng đêm, lang thang trên những con đường bụi bặm của Atar lúc bình minh, ngủ thoáng chốc trên tấm thảm trong phòng trống của một nhà chứa xe taxi.
Và trong những ngày tiếp theo, khi chúng tôi lang thang giữa những đống đổ nát, chuyến tàu đưa chúng tôi đến dường như ngày càng trở nên xa xôi mơ hồ hơn, như thể toàn bộ chuyến đi hôm trước chỉ là sản phẩm của một giấc mơ điên cuồng, hỗn loạn, hoặc có lẽ là một ký ức tưởng tượng những chi tiết đã bắt đầu phai mờ về hành trình của cha mẹ tôi hồi nhiều năm trước.
Nhưng trong hầu như suốt tuần sau đó, những vảy bụi mịn từ quặng sắt cứ tiếp tục rích ra từ tai tôi.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Travel.